Trước nhà thờ Saint Sébalt,
nơi góc đường Des Trabans là
một quán nhỏ, vừa hẹp vừa
cao, cửa kính bụi bậm, trên
nóc có dựng bức tượng Đức
Mẹ Đồng Trinh bằng thạch
cao.
Đó là nơi tôi trải qua những
ngày buồn thảm nhất đời.
Tôi đến thành phố
Nureemberg đê học hội họa từ
các họa sư tên tuổi ở Đức,
nhưng vì thiếu tiền nên đành
phải vẽ ảnh, những ảnh
xoàng xĩnh như các mụ to béo
lắm lời, con mèo ngồi trên đầu
gối, những ông xã trưởng đội
mũ ba góc,những ông nhà
giàu, đầu chụp tóc giả...
Hết vẽ ảnh, tôi vẽ những bản
phác họa (Croquis) và sau
cùng vẽ hình bóng
(Silhouettes).
Với tôi, không có gì thê thảm
cho bằng luôn luôn bị viên
quản lý khách sạn hạch sách.
Sáng nào ông ta cũng mím
môi giọng ồn ào, vẻ xấc láo
nạt nộ: "Chừng nào ông mới
chịu trả tiền cho tôi? Ông có
biết tiền phòng của ông lên tới
bao nhiêu rồi không? Hai trăm
đồng "florin" và mười đồng
"kreutzer". Không có bao
nhiêu phải không?".
Những ai chưa nghe giọng xấc
láo của tên quản lý khách sạn
này không thê hiêu được nỗi
khổ của tôi trong lúc bấy giờ.
Tình yêu nghệ thuật, óc tưởng
tượng, sự hăng hái đi tìm cái
đẹp của tôi hoàn toàn khô
héo. Tôi trở nên vụng về, nhút
nhát. Bao nhiêu nghị lực đều
biến cũng như lòng tự trọng...
Và thấy ông xã trưởng từ xa
là tôi đã cúi đầu chào cẩn
thận.
Tải ảnh
Một đêm, không một xu dính
túi, quá lo ngại, sợ bị viên
quản lý dê sợ kia cho vào tù,
tôi nhất định tự tử bằng cách
cắt họng. Với ý nghĩ đó, tôi
ngồi trên chiếc giường tồi tàn
ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ
ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về
triết lý. Tôi tự hỏi: "Con người
là gì? Một con thú ăn tạp! Hai
hàm răng có các loại răng
chó, răng cửa, răng hàm
chứng minh điều đó. Răng chó
đê ăn thịt, răng cửa đê ăn trái
cây và răng hàm đê nghiền.
Nhưng khi không còn gì đê
nghiền thì con người là một
thứ vô nghĩa trong vũ trụ,
một điều thừa, một bánh xe
thứ năm...".
Đó là những cảm nghĩ của tôi.
Tôi không dám mở con dao
cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên
trở nên can đảm mà tự tử.
Sau những lý luận như thế, tôi
thổi ngọn đèn sáp, hoãn lại
mọi việc vào ngày mai.
Tên quản lý khách sạn đã làm
cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn
toàn.
Tôi không thấy gì khác hơn là
những hình bóng và điều
mong muốn duy nhất của tôi
là có tiền đê ném vào mặt hắn
mỗi khi hắn ta đến quấy rầy
tôi.
Nhưng đêm đó, có một cuộc
cách mạng kỳ lạ trong đầu óc
tôi. Tôi thức dậy vào lúc một
giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy
một bức phác họa theo loại
Hòa Lan, tức là loại kỳ quái,
không có một chút liên hệ gì
tới các quan niệm về hội họa
thông thường của tôi.
Các bạn hình dung, bức phác
họa là một khoảng sáng tối
âm u, nằm giữa những bức
tường cao, loang lở. Những
bức tường dầy đó có những
móc sắt nhọn hoắt đóng ở
trên cao vào khoảng hai ba
thước. Người ta đoán ngay từ
đầu khung cảnh đó là một lò
sát sinh.
Bên trại có một hàng rào mắt
cáo. Bạn thấy một con bò mổ
banh ra, treo lên trần bằng
những cái móc to tướng.
Những vũng máu chảy trên
nền gạch và dồn xuống một
đường mương đầy rác đến dị
kỳ.
Ánh sáng chiếu từ trên, giữa
các ống khói. Bóng các mái
nhà kế cận chồng chất lên
nhau.
Bên trong là một trại... Dưới
trại là một đống củi. Trên
đống củi có một cái thang, vài
bó rơm, một đống dây, một
chuồng gà và một chuồng thỏ
phế thải.
Làm sao các chi tiết ô hợp đó
lại chạy vào trí tưởng tượng
của tôi? Tôi cũng không biết,
không thấy một cảnh nào như
vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra.
Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ
là một nét vẽ chững chạc được
nghiên cứu cẩn thận. Không
thiếu một cái gì hết!
Nhưng bên mặt, còn một góc
bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì
lên đó. Kìa, có một vật gì thấp
thoáng cử động. Bỗng nhiên
tôi thấy một bàn chân, một
bàn chân lật ngược, tách khỏi
mặt đất. Mặc dầu vị trí đó
không thê có được tôi vẫn
theo sáng kiến đó, không hề
hiêu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn
chân đó dính vào ống quyên...
và trên ống quyên có một
chéo áo... Liền sau đó, một mụ
già, xanh xao, tiều tụy, tóc rối
bời té sấp trên bờ giếng trong
khi chống cự với một nắm tay
đang siết cổ mụ...
Thì ra tôi vẽ một bức tranh
giết người. Ngọn bút rơi khỏi
bàn tay tôi.
Mụ già trong tư thế chống cự
tận lực, nằm vắt lên thành
giếng, mặt nhăn nhó vì kinh
hãi, hay tay bám chặt lấy cánh
tay của kẻ sát nhân, mụ ta
làm tôi hoảng sợ...
Tôi không dám nhìn mụ.
Nhưng về phần tên sát nhân
thì tôi không thấy, trừ cánh
tay. Tôi không thê kết thúc
được bức tranh.
Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ còn có
nét mặt của tên sát nhân nữa
mà thôi. Ngày mai mình sẽ vẽ
nốt. Dê mà!".
Tôi nằm xuống giường, hãy
còn kinh sợ trước những gì
vừa thấy qua nét vẽ của chính
mình. Năm phút sau, tôi ngủ
như chết.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy
khi trời hãy còn mờ tối.
Vừa mặc quần áo xong và sắp
sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở
thì có hai tiếng gõ cửa.
Tôi lên tiếng:
- Cứ vào!
Cánh cửa mở. Một người đã
già, cao, ốm, mặc toàn màu
đen bước vào thềm. Hai mắt
ông gần nhau quá, mũi ông
quặp xuống như mũi két, trán
ông rộng, xương xẩu. Gương
mặt ông có vẻ nghiêm khắc,
ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:
- Ông là họa sĩ Christian
Vénius?
- Chính tôi thưa ông.
Ông ta gật đầu một lần nữa,
tự giới thiệu:
- Tôi là Nam tước Frederic Van
Spreckdal!
Sự xuất hiện của ông Van
Spreckdal, chánh án tòa đại
hình trước căn gác tối tăm của
một họa sĩ vô danh khiến tôi
thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn
bàn ghế tồi tàn, sàn gác bụi
bậm, xấu hổ trước cảnh
nghèo của mình. Nhưng ông
Van Spreckdal không chú ý
đến những chi tiết đó. Ông
ngồi trước bàn nhỏ của tôi
nói:
- Họa sĩ, tôi đến đây...
Nhưng, cùng lúc đó, hai mắt
ông dừng lại trên bức họa
chưa hoàn thành... ông không
nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc
giường tồi tàn và sự chiếu cố
bất ngờ của nhân vật này
dành cho một trong các tác
phẩm của tôi khiến tim tôi đập
mạnh vì mối lo sợ khó nói.
Độ một phút, Van Spreckdal
ngước đầu lên nhìn tôi thật
chăm chú.
- Ông là tác giả bức họa kia?
- Dạ phải.
- Giá bức họa đó bao nhiêu?
- Tôi không bán các bức phác
họa. Đó chỉ là một dự án.
Ông khách kêu lên một tiếng
"A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy
đầu ngón tay bằng vàng, ông
lấy một kính phóng đại trong
áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên
cứu bức họa một cách trầm
lặng.
Ánh nắng mặt trời chiếu xiên
xiên qua gác. Van Spreckdal
không nói một lời nào, sống
mũi ông quằm xuống, đôi mày
ông cau lại.
Không khí hoàn toàn im lặng,
tôi nghe rõ tiếng vo ve của
một con muỗi mắc trong lưới
nhện. Sau cùng, không nhìn
tôi, ông hỏi:
- Khuôn khổ bức tranh này
như thế nào?
- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn
bộ.
- Giá tiền?
- Năm mươi đồng "ducat".
Van Spreckdal đặt bức ảnh
xuống, lấy trong túi chiếc ví
dày màu xanh lá cây, giống
như một quả lê. Ông trút các
đồng tiền vàng ra:
- Đây, năm mươi "ducát".
Nam tước đứng lên chào tôi.
Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán
ngà của ông nện trên các bậc
thang gác. Khi ông ta xuống
đến tầng dưới tôi mới hoàn
hồn và sực nhớ chưa cảm ơn
ông ta. Tôi chạy nhanh xuống
năm tầng lầu. Nhưng ra tới
đường, nhìn hai bên, con
đường vắng tanh. Tôi hổn
hên" "Lạ quá!", rồi hổn hên
leo trở lên gác.
Sự xuất hiện đột ngột của Van
Spreckdai khiến tôi ngây ngất
bàng hoàng. Ngắm chồng
"ducat" ngời sáng dưới ánh
nắng, tôi ngẫm nghĩ: "Hôm
nay, mình tính cắt cổ tự tử vì
mấy đồng "florin" không
đáng, bây giờ thì cả một sản
nghiệp từ trên trời rơi xuống.
Mình không mở con dao cạo ra
là phải! Và từ đây về sau, nếu
có ý nghĩ tự tử nữa thì mình
nên hoãn lại ngày hôm sau.
Sau những cảm nghĩ đó tôi
ngồi lại đê tiếp tục vẽ nốt bức
tranh. Chỉ cần bốn nét bút là
xong. Nhưng tôi thất vọng
não nề. Bốn nét bút đó tôi
không vẽ được. Tôi mất tong
cảm hứng. Nhân vật bí hiêm
kia, tôi không thê nào hình
dung ra mặt mũi. Tôi cố suy
nghĩ, cố phác họa, nhưng
không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ
hôi có giọt.
Đúng lúc đó, tên quản lý bước
vào phòng tôi, không gõ cửa
theo thói quen. Hắn nhìn
chồng tiền vàng, kêu lên:
- A ha! Tôi bắt được quả tang
ông có nhiều tiền vàng như
thế này, thế mà ông bảo là
không có tiền!
Và mấy ngón tay nhọn hoắt
của hắn quờ quạng về phía
đống tiền vàng trên bàn.
Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi
chợt nhớ tên quản lý luôn
hoạnh họe bấy lâu nay, tôi
nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống
ra khỏi phòng, rồi sập cửa,
làm hắn dập cả mũi.
Tất cả những việc đó xảy ra
thật nhanh. Tôi nghe viên
quản lý kêu ầm lên ở bên
ngoài:
- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!
Những người mướn phòng
xung quanh đổ ra ngoài.
Tiếng họ lao xao:
- Có việc gì vậy?
Tôi mở cửa thật bất ngờ, đạp
mạnh vào mông tên quản lý
khiến hắn lăn ùng ục xuống
lầu, có đến vài mươi bậc
thang.
Tôi hét lên:
- Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng
chó đó xuống lầu. Chỉ có vậy
thôi!
Xong, tôi khóa cửa lại trong
tiếng cười của các bạn phòng
bên.
Tôi rất hài lòng về chuyện vừa
làm, xoa tay thích thú.
Chuyện xảy ra khiến tôi hứng
chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp
tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ.
Đó là tiếng báng súng đặt
xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua
cửa sổ, thấy ba cảnh sát, súng
dựng dưới chân, đứng canh
trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi
thầm: "Thằng quản lý gãy tay,
lọi cẳng chăng?".
Các bạn có thấy điều kỳ quái
trong đầu óc con người chưa.
Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ
tự tử, mà bây giờ lại run rẩy
khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội
đạp tên quản lý té lầu!
Có tiếng ồn ào trên thang lầu,
tiếng chân người, tiếng súng
khua, tiếng những lệnh truyền
cộc lốc.
Bỗng người ta cố mở cửa
phòng tôi. Cửa đã khóa. Có
tiếng hô to:
- Mở cửa! Cho lính vào!
Tôi đứng lên, run rẩy, hai
chân lảo đảo.
- Mở cửa!
Tôi có ý nghĩ muốn trèo lên
mái nhà. Nhưng vừa ló đầu
qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi
giật thụt lùi, đầu óc choáng
váng. Tôi thấy các cửa sổ ở
tầng dưới với những cửa kính,
những chậu hoa... dưới nữa là
bao lơn, sau cùng là trụ đèn
đường, bảng hiệu "Tônnelet
Rouge" và sau hết là ba lưỡi lê
sáng chóe đang chờ tôi rơi
xuống đê đâm suốt từ lòng
bàn chân đến gáy.
Trên mái nhà đối diện có con
mèo to, màu hung đỏ, núp sau
ống khói rình một đàn chim sẻ
đang kêu chíu chít trên màng
xối.
Tôi không thê hình dung mắt
con người có thê thấy thật rõ
và nhanh đến vậy trong khi lo
sợ.
Bên ngoài người ta ra lệnh
đến lần thứ ba:
- Mở cửa! Hay đê người ta phá
cửa đây!
Thấy trốn không được, tôi lảo
đảo đến cửa... vặn khóa.
Vụt một cái, hai cánh tay chụp
lấy cổ tay tôi. Một người mập
lùn, miệng đầy hơi rượu nói:
- Đây rồi!
Ông ta mặc áo xanh ve chai,
gài nút tới cổ, đê râu rậm, đeo
đầy cà-rá và tên là Passauf.
Hắn là cảnh sát trưởng.
Bên ngoài có đến năm tên lính
bồng súng nhìn tôi chăm chỉ.
Tôi hỏi Passauf:
- Ông muốn gì?
Hắn quát:
- Xuống lầu!
Và ra lệnh cho một tên lính
nắm tay tôi lôi đi.
Mấy tên kia lập tức xông đến
lục tung căn phòng nhỏ bé
của tôi.
Tôi bước xuống lầu, dựa vào
tên lính, như một kẻ ho lao
đến thời kỳ thứ ba, tóc tai rối
nùi, mỗi bước mỗi vấp.
- Tôi bắt anh !
Người ta vứt tôi lên xe ngựa,
kẹp tôi giữa hai tên lính vạm
vỡ. Khi chiếc xe chạy, tôi còn
nghe có tiếng bước chân chạy
theo của trẻ nhỏ.
Tôi hỏi một trong hai người
lính:
- Tôi bị bắt về tội gì?
Tên này nhìn tên lính kia, mỉm
cười một cách khó hiêu, nói:
- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt
về tội gì kìa?
Nụ cười đó khiến tôi sợ tái
người.
Không lâu, một bóng mát bao
trùm lên chiếc xe. Tiếng chân
ngựa vang dưới nền gạch khô
khốc. Chừng như tôi đã được
đưa tới khám đường. Đối với
tôi, bây giờ cái gì cũng trở lên
đen tối.
Từ móng vuốt của tên quản lý,
tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi
người vô thì nhiều mà người
ra thì ít. Người ta giam tôi một
cách thản nhiên như cất một
đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó,
nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười
phút, nghĩ mông lung:
Free Online Eigibility Test & USA Green Card Lottery Application