Cơn mưa giông vừa tạnh, chỉ
còn lác đác vài hạt thật nhẹ.
Xa xa, những tia chớp lóe lên
làm sáng rõ ngọn tháp giáo
đường. Giờ nầy mọi người
trong xóm Xuân Bình đã say
ngủ. Khuya lắm rồi, dễ chừng
cũng sau nửa đêm. Lão
Doanh, bước ra sân quẹo qua
phía hè sau, nơi có ba tấm ván
dựng thành hình chữ U chứa
một đống tro, vắn quần lên
tiểu. "Cho tôi miếng nước...có
ai cho tôi miếng nước...trời ơi,
tôi khát quá, chết mất..."
Trong bóng đêm dày đặc, lão
Doanh rùng mình ngơ ngát,
lão nói thầm trong bụng:
"Giờ nầy ai còn xin nước?"
Lại tiếng kêu:
"Cho tôi xin miếng nước...có ai
cho tôi miếng nước...trời ơi..."
Tiếng than lúc nầy gần lắm,
giọng the thé, khiến người
nghe nổi da gà. Lão Doanh
ráng sức tiểu cho lẹ, chưa đã,
nhưng lão đành cầm ...lắc lắc
thật nhanh, thả ống quần ngủ
xuống, vội chạy vào nhà,
đóng sầm cửa lại. Tiếng xin
nước lúc nửa đêm làm toàn
thân lão Doanh ớn lạnh. Sực
nhớ câu nói của cha Luông:
"Chúa đã từng làm phép đuổi
quỷ nhập vào đàn heo để cứu
người đàn bà ...". Lão Doanh
mò tìm chiếc hộp quẹt đốt đèn,
đến bàn thờ cầm cây thánh
giá, tròng xâu chuỗi vào cổ
mở cửa mạnh dạn bước ra
sân. Lão Doanh cầm thật chắc
cây thánh giá làm như thể nó
vụt bay đi. Lão đưa lên trời,
đọc một hồi kinh Lạy Cha cho
đến đoạn cuối ... nhưng cứu
chúng con cho khỏi sự
dữ...Amen . Lão cố đọc lớn câu
sau cùng nhiều lần.
"Quớc, quớc"
Lão Doanh giật bắn mình, một
con quạ đâu đó kêu hai tiếng,
vỗ cánh sà xuống ngang trước
mặt lão rồi vụt bay đi. Lóng
ngóng vài giây, tiếng kêu xin
nước cũng bặt... "như vậy là
tốt lắm rồi", lão Doanh nghĩ
như thế và tự cho mình hưởng
cái quyền an ninh. Có thể sau
khi đọc kinh, hồn ma được
nhập vào con quạ và Chúa đã
đem nó đi trấn nước rồi,
miệng lão càm ràm, khinh
miệt: "ma với cỏ" rồi quày quả
bước vô nhà, đóng cửa. Đặt
cây thánh giá vào chỗ cũ, cởi
xâu chuỗi tròng hai bận vào
nó, lão Doanh bưng chiếc đèn
hột vịt lên gần miệng thổi cái
phụt, để lại xuống bàn. Lòng
đôi dép Nhựt dính cát, lão co
hai bàn chân xát vào nhau vài
lần cho sạch trước khi nằm trở
lại.
Độ tàn điếu thuốc, trí lão
Doanh chưa hết bàng hoàng,
trong mùng, mắt lão vẫn còn
thao láo với màu đen quánh
xung quanh. Bỗng tiếng bước
chân của ai mỗi lúc nghe một
gần. Tiếng chân ngừng hẳn,
mấy con gà phát hiện có bóng
người la toáng lên, đập cánh
đành đạch như muốn phóng
ra khỏi chuồng. Lão Doanh
ngồi phắt dậy rón rén đi đến
cửa sổ nhìn ra vì đinh ninh có
kẻ trộm. Một tia chớp lóe lên,
lão Doanh giật thót, lạnh
xuyên toát xương sống; dáng
một người đàn bà gầy đét,
đầu bù xù, mớ tóc phủ xuống
gương mặt xanh dờn như tàu
lá chuối non mà lão chỉ cách
bà ta có mấy song cửa sổ.
Tải ảnh
Người kia cất tiếng gọi:
"Cho tui xin miếng nước... cho
tui xin... xin nước"
Tiếng nói đứt quảng và mang
âm thanh cực kỳ rùng rợn. Lúc
nầy hồn vía lão Doanh lên
mây. Lão á khẩu phóng lại bộ
phản lăn tuốt vào góc trùm
mền kín mít. Bà vợ nằm trên
chõng tre kê gần bếp, chưa
tỉnh ngủ hẳn, nghe thấy tiếng
kêu bên ngoài sợ quá đái vãi
ra quần, nhào qua phòng
thằng Thế, đứa con đang ngủ
chung với vợ mới cưới. Bà
nhào lên giường chen vào
giữa hai vợ chồng nó làm
chúng giật mình thức giấc hỏi
dồn:
"Chuyện gì vậy, có chuyện
gì...?"
"...mờ...mờ...ma..."
Bà Doanh trả lời ú ớ, hai hàm
răng gõ vào nhau nghe lộp
cộp. Một góc của chiếc mùng bị
đứt dây, phủ xuống như tấm
lưới cá làm Thế quờ quạng
một lúc mới hất được mùng
chui ra. Lúc nầy nó đã nghe
tiếng kêu xin nước bên ngoài
vọng vào làm tim nó cũng đập
thình thịch.
Nãy giờ toàn thân lão Doanh
nằm co quắp như con tôm.
Tất cả vốn liếng kinh, kệ lão
nhớ câu nào đọc câu đó,
không đầu không đuôi. Lão sờ
lên cổ để tìm xâu chuỗi hộ
mạng, nhưng chợt nhớ ra đã
treo nó lên cây thánh giá rồi.
Trong nhà lão Doanh ai nấy
đều run. Thằng Thế làm bạo
bước trên mười ngón chân
xuống nhà bếp lấy cái rựa. Nó
không biết lấy rựa để làm gì,
chặt ma ư? nó không có ý định
ấy, nhưng nghe nói ma sợ sắt
biết có đúng không? Cái rựa
không nằm ở vị trí thường lệ,
nó mò mẫm trong bóng đêm,
bàn tay phải giong ruổi huơ
vào lưỡi dao, nó thấy rát biết
vừa bị đứt. Thế lấy bàn tay
trái bóp mạnh vào vết thương
cho cầm máu.
Bên ngoài tiếng xin nước và
tiếng móng tay cào lên cánh
cửa bằng tole cứ chốc chốc
xoáy vào nghe cực kỳ rùng
rợn. Thục và mẹ chồng vốn
chưa thân nhau lắm, thế mà
đêm nay, Thục trùm mền quá
đầu quay mặt vào vách run
như người bị sốt rét nặng thì
sau lưng mẹ chồng cũng ôm
chặt lấy vai nàng mà run. Một
đêm hãi hùng không tả trùm
xuống nhà lão Doanh, một
ngôi nhà lẽ loi cách ly xóm đạo
Xuân Bình mấy trăm thước.
Nói cho đúng lão Doanh có
người con trưởng tên Gia hiện
đang làm việc gì đó trên cơ
quan phường Tân Giao. Gia
nghĩ mình có quyền nên thấy
khoảng đất trống sau khi ai
đó hốt cốt mấy ngôi mộ liền
nhau, hắn mướn thợ cất lên
ngôi nhà cho cha mẹ và hai vợ
chồng đứa em mới lấy vợ dọn
vào. Còn riêng Gia thì chính
quyền đã cấp phát cho căn hộ
tịch thu của một gia đình vượt
biên để lại trong cư xá Thống
Nhất. So bán kính, nhà lão
Doanh nằm gần nghĩa địa
công giáo hơn là xóm đạo
Xuân Bình.
Khoan nói đến tiếng con ma
thỉnh thoảng kêu than xin
nước uống mà người ta đồn
đãi bấy lâu, nay nhà lão
Doanh mới biết là có thật.
Tiếng gió về đêm thổi mấy cây
dương liễu trồng xung quanh
nghĩa trang lúc cao vút, lúc
ngừng hẳn rồi trầm trầm
trước khi hú lên như một cơn
suyễn nặng, cộng với tiếng
chó tru dài khan khan đâu đó,
tự nó đã tạo lên những âm
giai ma quái đến rợn người.
Nghe nói có ma, năm ba thanh
niên trong nhóm Thánh thể
hiếu kỳ, đem dao, gậy và dĩ
nhiên là cây thánh giá to
tướng ra nghĩa trang căng
mùng nằm chờ. Nhưng lạ lắm,
những đêm trăng thanh gió
mát hoặc trời khô ráo, không
mưa thì lại chưa bao giờ nghe
thấy tiếng ma xin nước. Chỉ có
khi nào sau cơn mưa và vào
lúc nửa đêm thì tiếng kêu xin
nước lại xuất hiện. Việc nầy
khiến nhiều người đoán mò
rằng, trời hành không cho nó
uống nước, nên thấy nước
hồn ma nó thèm.
Câu chuyện ma xin nước đã
tạo cho dân địa phương
truyền miệng nhau nhiều
huyền thoại. Trong ấy có
chuyện một người đàn bà
chửa, còn rất trẻ, xin ăn lang
thang trên khắp nẻo đường
trong thị xã Cam Phương. Cô
ta không có nhà cửa, tối đến
thì đụng đâu quấn mền đó.
Người ta gặp cô ở những góc
phố, trong lều chợ, hè trường
học, trạm xe búyt v.v... không
ai biết chỗ nào chắc chắn.
"Khó khăn như thế thì chửa
với đẻ làm chi cho phiền." -
Ông đi qua, bà đi lại khó tránh
bàn tán như thế.
Nhưng những suy nghĩ rộng
lượng hơn thì cho rằng con
người là một tổng hợp của hỷ
nộ ái ố - có thể sau một bữa
ăn no, người ta có quyền nghĩ
đến một chút thoải mái bằng
phương tiện sẵn có. Người kể
chuyện còn cả quyết tiếng xin
nước ấy chính là hồn ma chị
Thơm, chị đã tự tử trong
khám năm 2003.
Chẳng hiểu buồn lòng thế nào
đó mà chị Thơm treo cổ tự tử.
Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày
đổ ruột - giới chức địa phương
không ai buồn điều tra vụ
người ăn mày tại sao chết.
Hơn nữa, thiên hạ có thói
quen cho rằng, người ăn mày
vốn trên đời đã bất hạnh, chết
đi biết đâu không là một giải
thoát khỏi cảnh đọa đày do
cơm áo gây nên.
Không phải ngẫu nhiên mà
ông bõ già của nhà thờ Xuân
Bình được nhắn vào phòng
giam nhận xác chị Thơm về
chôn. Nguyên anh Gia, làm
việc trong phường Tân Giao
lúc nầy mới theo công giáo.
Mỗi tuần anh về nhà thờ xưng
tội, xin lễ rất đều đặn, nên
càng quen thân với tín hữu,
quen với bõ già. Cha xứ trở
nên thân thiện với người có
quyền chức thấy rõ. Sau lễ có
khi Gia ở lại la cà tâm tình với
cha. Khi về Gia thường khuân
theo các thứ quà cớm thặng
dư do giáo dân mang tới biếu
cho cha, đại khái như kết bia,
vài chai rượu lễ, thùng nước
ngọt, tá áo thun v.v...Thứ gì
Gia cũng dễ dãi nhận cho cha
vui. Thật ra tặng người cán bộ
mấy thứ dư dùng cũng có cái
lợi - thứ nhất, bất cứ những
lỗi lầm nào từ việc lái xe cán
chết người, chở ba, xe lậu,
đánh lộn...của con chiên Xuân
Bình bị bắt về đồn, chỉ cần cha
nói một tiếng là mọi việc đều
yên. Thứ nhì, tội gì không làm
quen với những người có
quyền, họ là thành phần
truyền đạo tốt. Tiếng nói của
họ mạnh gấp trăm lần mấy
ông biện trong giáo xứ gởi ra
ngoài gõ cửa những người
lương chung quanh để mở
mang "xóm" Chúa.
Trước khi bõ già đi nhận xác
người ăn mày, họ đạo Xuân
Bình mở một phiên họp bàn
xem nên chôn người ấy ở đâu.
Hai phần ba số người dự phiên
họp đều không tán đồng cho
người ăn mày nằm trong khu
nghĩa trang công giáo vì họ
cho rằng sẽ làm ô uế những
linh hồn thánh thiện đang
nằm chờ sự trở lại của Chúa
Giêsu trong ngày tận thế. Bõ
già buộc phải tìm một rẻo đất
bên ngoài nghĩa địa công giáo
mà chôn người ăn mày. Ông
cắm lên ấy cây thập giá tự chế
với hy vọng tình thương Thiên
Chúa sẽ ngó ngàng cho con
người bạc mệnh. Công việc mai
táng hoàn tất, nhưng có một
điều chưa bao giờ hoàn tất là
hồn ma chị Thơm. Thỉnh
thoảng bõ nằm chiêm bao
thấy bóng chị Thơm đi vào
nhà thờ xin nước. Ông thì
không tin chuyện ma quái vì
đã có niềm tin mãnh liệt vào
Thiên Chúa của ông. Nhưng lạ
quá, không tin là một việc,
nhưng chiêm bao cứ đến
khuấy bõ lại là việc khác. Đôi
khi bõ đâm ra hối hận vì đã
trót nhận xác chị Thơm về
chôn, biết đâu con ma nó lại
không theo bõ suốt đời. Sau
bao nhiêu lần chiêm bao thấy
chị Thơm về báo, bõ già không
biết làm gì khác bèn đem tự sự
trình lên cha xứ. Cha Luông
nói với bõ là từ nay đừng bao
giờ nhắc đến chuyện hoang
đường ấy nữa, cha không
muốn nghe. Bõ riu ríu cáo từ,
trong thâm tâm ông cứ băn
khoăn về những điềm chiêm
bao kỳ lạ. Mới đêm kia đây
thôi, vừa đặt lưng xuống
giường là bõ đã ngủ khì, trong
giấc mơ ông thấy chị Thơm về
đứng ngoài cửa sổ nói với ông
như thế nầy:
"Tôi là người con gái mồ côi từ
nhỏ, sống bằng tình thương
của bá tánh. Mười tháng trước
đây, nhân dính vào vụ bán vé
số giả, tôi bị công an thị xã
bắt nhốt. Trong đêm mưa tầm
tả, không còn ai ở cơ quan,
Gia - một tên cán bộ đã vào
nhà giam giở trò sàm sở, dùng
sức mạnh cưỡng hiếp tôi. Hắn
đã cướp đi sự trong trắng của
tôi, làm cho tôi mang bầu, dẫn
đến cuộc sống khốn khổ tôi
phải đi xin ăn. Rồi sau một
biến cố tôi lại bị bắt oan khi
sắp sinh con. Gia muốn che
giấu hành động bỉ ổi nên đã
vào nhà giam lấy dây siết cổ
tôi rồi tạo cho hiện trường
được nhìn như một vụ tự tử.
Tôi thật sự bị giết, tôi muốn
kêu oan".